Trời cũng đã gần trưa, nắng giờ này không còn là nắng tốt nữa, nhưng vắt vẻo ở một khu rừng đã trọc chỉ còn hai cái cây cao lớn, bắt ngang là chiếc võng vắt vẻo đong đưa qua lại. Có một ông già, nét mặt hầm hầm như cái không khí nắng oi bức không còn cái bóng cây nào để che đi cái nắng đen da, không còn táng lá nào làm giảm đi cái nhiệt độ đang đè xuống những mái đầu trần. Ông Hai lúc nào cũng thấy đinh tai nhức óc với tiếng máy xúc, máy ủi đang cán nát những gốc cây xấu số. Hàng lông mày ông lúc nào cũng sắc léo và như kéo lại dính chặt vào nhau, như thể người ngoài làm việc gì cũng không khiến lão già gần lỗ đất ấy vừa lòng. Cái tánh tình rất cục, cựu chiến binh ai mà chả kì lạ thế, mà điều đó lại không vô lý, nó hợp lý hơn cả ngàn lý do của những người đang thi công, khai khẩn mảnh rừng này.
Ngày vừa rời quân ngũ, như bao thanh niên khác, một anh lính trẻ yêu đời chọn ở lại nơi chiến trường năm xưa, mảnh đất bạt ngàn màu xanh của lá cây rừng. Rừng là thứ gì đó rất thiêng liêng và bền bỉ, không thứ bom đạn nào có thể khuất phục được kể cả là một nhánh cây khô, dù cho có đổ gục xuống thì một thân cây to lớn cũng là công cụ cho dân ta đánh giặc. Ông Hai lúc ấy về lấy vợ sinh con nhưng đồng thời ông cũng đảm đương nhiệm vụ bảo vệ khu rừng một cách tự nguyện, vun đắp từng vuông đất để phục hồi lại hiện trạng vốn có mà mẹ thiên nhiên ban tặng. Không phải người rừng nhưng lại yêu rừng, ngày ngày sau giờ làm việc ông Hai là người đốc thúc mọi người cùng chung tay trồng thêm cây, để sau này nó mang bóng mát cho con cháu đời sau. Ông Hai là thế, biết bao năm bầu bạn với rừng, con cái lớn lên mua được nhà ở lộ lớn thì ông Hai cũng không nỡ bỏ rừng mà ra ngoài sống với cái tân tiến, người mà trải qua hành trình hàng thập kỉ cùng một khu rừng đã trở nên già cỗi, đối với rừng ông đã là người bạn già, người bạn của sự nghiệp trồng rừng. Người nào vô rừng để chăm sóc, trồng trọt thì ông Hai mến lắm, ông sẽ đem cho quả ngọt lộc rừng mà biếu cho. Ngược lại thì ông ấy cũng dữ lắm, ngày còn sức vóc ông sẵn sàng xả thân đánh đuổi mấy thằng chặt phá rừng, đến khi lớn tuổi chẳng còn sức thì ông dùng nét mặt phẫn uất để đáp lại mấy thằng dân ngu hám lợi. Thế nên kiểm lâm cũng tôn trọng ông, nô đùa gọi ông là “ông trùm rừng già” và mỗi lần nghe như thế lần nào cũng như lần nấy ông Hai cười một cách sảng khoái vỗ đùi phành phạch:
– Rừng nó là con vợ bé, là thanh mai trúc mã, là đồng chí. Tao phải biết làm sao để cho nó đẹp, nó xanh, chứ dùng máy móc để sàng lọc không khí nó ăn thua gì. Rừng nó sống lại mấy hồi, đời con đời cháu, phổi nó tốt hơn nó hưởng nhiều hơn.
Bởi thế giờ đây ngày ngày vắt vẻo chiếc võng trên hai thân cây đều thấy ông Hai ngồi trên đó, không thể kể là bao nhiêu lâu, năm nào cũng như năm nào, có một lần ông còn phát giác được lũ lâm tặc.
Trưa hôm ấy đang thiu thiu ngủ, rừng già vang vọng lời cầu cứu bằng tiếng cưa mấy ồ ồ kéo từng tiếng lẹt xẹt lên những thân cây gỗ, như phản xạ của một người lính nghe tiếng đạn nổ ông Hai giật bắn người dậy, leo xuống võng, xách cái cây, đi về hướng âm thanh cưa gỗ đang phát ra và nhủ với lòng rằng tuyệt sẽ không tha cho cái phường dốt nát. Phía xa xa là một nhóm người đang loay hoay để kéo cái cây ngã ào xuống trong vội vã, chúng thoăn thoắt buộc dây vào, gấp rút để trốn và tiêu thụ cho mau chiến lợi phẩm, khi những cọng dây thừng đã quấn lấy thân cây và thắt chặt lại chuẩn bị được kéo đi thì ông Hai xuất hiện luồng ngay con dao đi rừng vào kéo mạnh lưỡi làm đứt phăng mớ dây đang trói lấy thân cây mến thương của mình. Bọn này chưng hững, đứng im bất động, mặt tái lại như đít nhái, nhưng vì chúng đông người nên nhanh chóng trấn định tinh thần lại. Còn ông Hai với kinh nghiệm trải qua nhiều cuộc chống lâm tặc thì cũng rất bình tĩnh:
– Tao đã gọi cho kiểm lâm rồi, khôn hồn thì đi cho mau đừng để tao nhớ mặt thì chết cả bọn.
Đáp lại chắc là tên dẫn đầu với cái giọng tha thiết:
– Bác Hai à anh em bọn tôi kiếm kế sinh nhai, lần này là lần đầu, thông cảm cho tụi tui còn nuôi mấy miệng ăn ở nhà.
– Mạng già tao ở đây bấy lâu, biết gọi tên tao vậy là bọn mày giả ngu hay ngu thật? Không có cái ngu nào giống cái ngu nào nhưng nếu biết sai còn làm thì mạng già tao không tiếc với bọn mày.
– Tụi con biết vậy là trái pháp luật, nhưng sinh lời nhiều nên muốn làm một vố. Thời buổi này công nhân thất nghiệp, vợ con ở nhà đói móc meo nhìn tội chúng nó.
– Không chỉ là tụi bây đang phạm pháp, nó còn là thời sự, còn sống, còn thở mỗi ngày thì phải biết khôn ra. Đói còn nhiều việc để làm, còn thiếu hiểu biết thì như đang chết dần chết mòn. Đừng chết vì thiếu hiểu biết, tụi bây không chết ngay thì đời con đời cháu tụi bây.
– Bác Hai thông cảm cho tụi con lần này thôi. Khổ quá mà bác.
Ông Hai không đáp, chỉ nhắm mắt lại còn miệng thì lẩm bẩm cái gì đó. Những tên lâm tặc đứng chết trân, không biết làm gì. Đi cướp rừng do ông Hai coi sóc, liều đến thế là cùng, thằng nào thằng nấy cũng không nói lại cái người đàn ông đó. Sau một lúc im lặng, có thằng mồ hôi rơi tận chóp mũi ngứa ngáy, khó chịu lắm nhưng cũng không dám lau đi. Ông Hai mở mắt, ánh mắt ông kiên định như ẩn bên trong là ngọn lửa có thể phực ra thiêu cháy ai đang đứng đối diện, ông bắt đầu nói:
– Một thân cây gỗ không đáng là bao nhiêu, lần này cho tụi bây lộc rừng về lấy vốn làm ăn, tao đã khấn vái người khuất mặt nhớ từng người tụi bây, nếu còn vác xác đến đốn ngã một thân cây nào nữa thì cũng không cần đến tao phải ra mặt trừng trị. Nhớ là đem về phải làm ăn chân chính, rồi nuôi dạy con cháu đời sau cho tốt, giống tụi bây thì khổ.
Xong xuôi hết mọi chuyện ông Hai trở lại chỗ thân cây vừa bị đốn, ngồi phịch xuống, tay vịn trán xoa xoa và thở ra từng hơi thật nặng. Kiểm lâm đã đến:
– Không kịp bắt tụi nó hả chú? Chú có nhớ mặt tụi nó không?
– Tui cho tụi nó đi rồi, rõ khổ.
– Cái gì vậy ông? Ông đang đùa với bọn tôi hả?
– Mấy cậu suy nghĩ thật là đúng, tôi cũng hiểu tại sao mấy cậu bỡ ngỡ, tôi rõ tất.
– Rõ mà ông còn làm, rồi bọn tôi ăn nói sao với mấy sếp? Chuyện tốt nào là đáng để tuyên dương? Ông ngày càng lộng hành.
– Tôi rõ.
– Lòng tốt của ông cũng không vượt ra khỏi luật pháp nhà nước. Luân lý đời thường của ông không có quyền quyết định
– Luật cũng dựa trên đạo đức mà thôi. Rồi chỗ này cũng sẽ bị đốn hạ và trở thành những ngôi nhà bê tông, những cây cột điện. Tôi sẽ chỉ cố bảo vệ những gì vốn có của đời thảo mộc, giữ gìn từng gốc rễ, từng nhánh cây. Đến khi chúng ta không còn quyền bảo vệ khu rừng này nữa cũng chưa nhận ra chúng ta sẽ mất đi điều gì trong tương lai. Các cậu còn bị đặt trong khuôn khổ, vẫn đang là khó có lý tưởng.
– Thôi tôi không nói với ông. Lỡ lần này, ông tự liệu mình đi – Các anh kiểm lâm cũng lẳng lặng ra về, dường như các anh cũng nhận ra một điều gì đó, một điều gì khó bộc lộ ra, mà nếu cho dù có cố thể hiện nó ra cũng không thay đổi được gì.
Ông Hai cũng rất trăn trở, đau đáu rồi lại không nói, không nhìn, không nghe, chỉ nghĩ, nghĩ về một điều còn xa xôi lắm mà còn xung khắc nhau nữa, khó làm sao cho thỏa mãn được hết lòng mọi người.
Cũng đã qua đi vài ngày, chuyện cũ trôi qua và cũng không ai muốn soạn lại bổn cũ ấy, người đàn ông lão thành vẫn thường rơi vào suy tư. Cứ mỗi lần như vậy, đầu óc ông lại nặng nề như đang chứa đựng một khối u nào đó trong hộp sọ. Bất giác ông Hai lại như đang cố đối thoại với ai đó trong suy nghĩ: Tụi bây còn nhớ ngày chiếc áo chia nhau mặc hay không? Chúng ta đã có chung màu áo lính, ở rừng này, màu xanh của lá này, những thứ che chở cho chúng ta. Những anh lính trẻ, vì chí trai, vì lý tưởng, vì những đôi cánh xanh trên từng tấc đất. Mấy đồng chí nay còn đâu? Chỉ riêng tôi ở đây còn nguyên vẹn hình hài, máu của anh em đã hòa vào đất, hơi thở cuối cùng cũng trút xuống như lá thu rơi. Người ở lại sao khó khăn quá! Phải đứng nhìn mảnh đất này mà sao nước mắt lại tuôn trào như thác đổ, như trời đổ giông. Tôi chẳng biết phải làm sao, tôi phải làm sao đây các đồng chí ơi… Rồi đôi mắt ông Hai hình như đang trực trào chút nước mặn, ông vội nhắm mắt, vuốt mặt, chân đung đưa võng để cho thiu thiu cặp mắt và đầu óc.
Bỗng cái võng bị vịn lại bởi đôi bàn tay mịn màng, trắng hồng và thơm mùi kẹo sữa, ông Hai mở mắt nhìn quanh. Đó là bé Hà, cháu gái của ông Hai, đứa cháu được ông yêu như yêu rừng vậy. Bởi tuy con bé còn nhỏ nhưng thích vào rừng chơi với ông, thích ngắm hoa dại và không khí mát mẻ của rừng cây. Đôi khi ở nhà mẹ cho Hà ăn quả gì có hột thì em đều chừa ra phần hột để đem vào rừng nhờ ông chỉ cho trồng trọt. Dẫu biết đó là suy nghĩ hồn nhiên của trẻ con nhưng đó lại là niềm an ủi cho một ông vệ rừng. Ông Hai đã giúp bé Hà gieo vài hạt dưa hấu ở ô đất trũng, ẩm nước, Hà thích lắm, ngày nào cũng ra chăm:
– Sau này lớn lên con cũng sẽ là một người bảo vệ rừng giống ông.
– Ừ! Giỏi lắm – Tuy là nói như thế, nhưng lòng ông lại có tưởng tượng ra một viễn cảnh liệu bọn nhỏ có chịu được cái công việc cần sự kiên nhẫn, quyết tâm này hay không. Sự chơ vơ trong một khu rừng rộng lớn sẽ là dễ hiểu bởi tụi nó đâu có cảm giác thân thuộc với lá, cây, cành, gió hoặc là linh hồn của rừng. Dù cho có gắng sức trẻ hừng hực khí thế thì sau này còn biết bao nhiêu là hiểm họa. Lúc đó liệu còn rừng nào đâu mà cho bọn nó bảo vệ, càng nghĩ càng thương cho những gì thế hệ sau này phải gánh chịu. Khi đang có sẵn một điều gì đó rồi mất đi sẽ không nuối tiếc bằng ta phải nhìn những gì ta cố gắng bảo bọc nó dần vơi trong bất lực. Một nỗi niềm gì đó cứ như đang xào xáo ruột gan ông Hai trên đống lửa, nó cứ thoi thóp như qua tim đang bị nhồi máu mà vẫn chưa định hình rõ ràng.
Cũng không lâu lắm cho đến khi ông thấy rõ nỗi đau của mình. Cảm giác lồng ngực như bị thiêu cháy mất niềm kiêu hãnh. Khu rừng đáng quý đối với ông được quy hoạch trong quá trình đô thị hóa để xây lên những tòa nhà cao tầng phục vụ nhu cầu hình thành đô thị, vì dù gì đây cũng gần tuyến đường bộ. Làm sao người đàn ông đó có thể chịu nổi việc đốn hết cây, bình địa nơi mà đồng đội ông và cả ông đánh đổi bằng cả một thời tuổi trẻ. Rồi rừng đâu, cây đâu cho một bầu không khí trong lành? Để môi trường cho con cháu còn sống nữa chứ. Lý lẽ của ông Hai sẽ hoàn toàn thuyết phục nếu ông đứng trong một phiên tòa không có cơ sở pháp lý rõ ràng.
Từ đó ông Hai luôn gây rối, phá hoại không cho công trình được tiến hành suôn sẻ. Sau vài lần như thế ông cũng bị cơ quan chức năng mời lên khuyên giải. Động đến chính quyền thì bản chất can trường của một cựu chiến binh lại càng bộc phát, như trong một màn cãi lý mà ông đang cố bào chữa rằng thiên nhiên vô tội. Nói như đã soạn sẵn một bản yêu sách dành riêng cho cuộc đời một người từ rừng bước ra, niềm yêu đã tạo ra một lực phản kháng kinh khủng. Rất đáng tôn trọng. Thấy vậy cán bộ cũng để yên không nói nhưng dọa rằng lần sau sẽ cưỡng chế nếu ông còn làm loạn và cho ông về.
Khi trở về ai cũng nói cho ông nghe ích lợi của sự đổi mới sắp tới, đưa ông xem những hình ảnh của những cao ốc đầy kịt đèn điện, cao vời trông nó xa hoa, lẫy lừng và choáng ngợp với những người trước giờ sống vùng đồi núi, rừng rậm. Có người còn khoe rằng con cháu họ đã đi được đến những nơi sầm uất, mà nơi đó cũng đâu có rừng nhưng không khí vẫn trong lành ,thoải mái. Như thể quan trọng hơn vẫn là ý thức. Ông Hai nghe rồi cũng ậm ừ ngoài mặt còn bên trong vẫn lồng lộn ấm ức mấy người hằng ngày chỉ biết coi thời sự cho có, chứ chẳng hề để ý tình hình đất rừng suy giảm. Sao không ủng hộ ông tiếp tục giữ gìn môi trường tự nhiên? Cốt yếu vẫn chỉ là duy trì chất lượng cuộc sống. Con người thật thờ ơ, trong khi có những kẻ vẫn táo tợn lẫn trốn khai phá rừng mang lại lợi lộc cho cuộc sống riêng lẻ của mỗi họ, gia đình họ. Dù cho nhà nước đã đóng cửa rừng, ngăn chặn nạn phá rừng rồi đấy thôi. Ông Hai hiểu thế thì đã tự nguyện đi bảo vệ một tài nguyên quan trọng rồi còn gì. Thế mà người như ông lại trở thành một kẻ phá hoại việc công bằng chính nhiệm vụ cao cả của mình.
Thế là ngày qua ngày ông Hai cứ bắt cái võng ở hai thân cây mà vẻ mặt cứ hậm hực, khó chịu. Những người làm việc cũng không để tâm đến ông, hình như ông đã trở thành bức tượng trên chiếc võng bằng vải dù đã cũ kĩ, người này đến người khác qua lại cũng chẳng màng đến một tí tẹo nào, cũng không công nhân nào đá động đến hai thân cây còn sót lại. Từ một hộ vệ của rừng già giờ đây lại trở thành một lão già bảo thủ, gàn dở và cố chấp. Đến bé Hà khi thấy ông mình như vậy cũng buồn theo, nơi công trường đã chằng chịt vật tư nên không chạy nhảy được nữa, khu rừng đã bị bình định chỉ còn sót lại ông Hai với cái tâm hồn đang xao động giữa chốn không gian mênh mông không còn vật ngăn, vì thế mà tiếng lòng khó mà vang vọng được. Bé Hà cứ thế đi ra xung quanh xem còn loại hoa dại nào để ngắm hay không trên lớp đất vừa cải tạo. Ngộ thay trong một đám đất đen còn ẩm ướt như vừa mới bị đào xới lại xuất hiện những mầm cây non xanh mơn mởn như một sự sắp đặt của tạo hóa, bé Hà lấy tay quơ qua lại phủi đi lớp bụi li ti đang bám lên táng lá xanh bé nhỏ rồi cất tiếng:
– Ông ơi nhìn này, chỗ này vẫn còn cây ông ạ.
– Đâu? Sao có thể? – Như một con người được sống trở lại, có cảm giác ông Hai đang hí hửng như đứa bé cỡ cháu Hà của ông. Từng bước ông chạy lại chỗ mầm cây như đang có sức chân đạp của một anh lính trẻ ngày còn đóng quân trong rừng. Mầm non đang vươn lên như hạt ngọc xanh giống như hạt ngọc xanh lục mà rừng để lại. Lộc rừng đang đâm chồi lần lượt lú lên trên mặt đất. Đó là khoảnh khắc bé Hà thấy được thành quả gieo trồng mà ông chỉ dạy. Ông Hai cùng cháu nhỏ dọn dẹp lại khu đất đang nảy mầm để có thể thấy rõ màu xanh của sự quý giá. Khu rừng đang xám xịt bỗng lại có thêm lộc của tạo hóa, còn đối với ông Hai như đang có một thứ gì đó chảy trong máu và chất chứa trong tim một nỗi niềm hân hoan.
Bé Hà mừng rỡ chạy về khoe với ba mẹ nó về thành quả mà nó cất công theo “học đạo”. Còn ông Hai ở lại với nét mặt cũng giãn ra, thoải mái hơn rất nhiều, ngồi đưa võng mà ngân nga trong miệng: “như lính giữa rừng yêu lá thấp mà thôi” – bài hát mà ngày xưa mỗi đêm vọng hát mà ông vẫn thường hay ca để xua tan đi cái màn đêm buốt giá, sương đọng lạnh cả người. Một không gian mênh mông, im phăng phắc lại làm người ta sướng rung, bởi khi nhận thấy một thứ gì đó sống lại cũng đủ làm một người có một tâm hồn làm tràn ngập yêu thương cảm thấy thỏa mãn, dù cho thứ đó không thuộc quyền sở hữu của họ về mặt pháp lý, tất cả chỉ tồn tại với chút gì gọi là nghĩa tình, kỉ niệm trọn vẹn trong trí nhớ.
Có một bóng người đang thấp thoáng nơi công trường, ông Hai cứ tưởng đó là một tên trộm nào đó đang thập thò tìm vài kí lô sắt liền cất giọng:
– Ai đó? – Rồi cái bóng ấy không đáp nhưng lại loay hoay, quay ngang quay dọc thì ông Hai gọi thêm lần nữa nhưng gắt hơn, lớn hơn – Ai đó hả? tối rồi vô đây làm gì?
Cuối cùng cái bóng ấy đã xác định được mục tiêu, tiến gần lại về phía ông Hai, với ánh đèn lù mù hiện dần ra một thanh niên ăn mặc rất lịch sự, sơ vin một cái áo sơ mi có vẻ hơi rộng và chiếc quần tây đen, tay cầm cuốn sổ, cây viết và trên cổ là một chiếc máy ảnh treo tòn ten chắc là một người làm về mảng phóng sự. Ông hai nghĩ thế. Mà bỗng có một điều gì đó tích cực hiện ra, chắc nhà báo lại đây phỏng vấn ý kiến người dân, thế thì quá tốt. Ta có thể kêu gọi mọi người chung tay bảo vệ rừng như trước giờ ông vẫn làm. Ông Hai chưa kịp cười để biểu lộ cảm giác ra khuôn mặt thì người thanh niên lịch sự ấy cất giọng:
– Dạ chào ông
– Chào cậu, không biết cậu tới đây giờ này làm gì?
– Thưa… Con đến lấy tư liệu để viết báo về quá trình độ thị hóa của nhà nước ở vùng này.
Ông Hai bỗng khựng lại sau câu nói đó. Lại là đô thị hóa? Bọn trẻ bây giờ nhiều tri thức quá mà sao lại thế? Ông Hai nói tiếp quyết giác ngộ cho cậu nhà báo trẻ tuổi một bài học:
– Ở đây có gì mà phải đô thị hóa? Sống ở rừng để con người ta hưởng nhiều lợi ích hơn không tốt sao?
– Thưa ông, ông nói đúng ạ – Ông Hai còn có phần bất ngờ khi làm sao còn có người đồng tình với ông không chút do dự mà còn với nụ cười trông nhẹ nhàng mà thản nhiên thế.
– Vậy cậu lên đây để viết về việc tôi nói à?
– Thưa ông, không! Vẫn là xoay quanh cái việc phải đô thị hóa ạ.
– Cứ tưởng cậu hiểu ai dè bằng mặt mà không bằng lòng với ông già cổ hủ này à?
– Nếu ông sẵn sàng tranh luận, con cũng sẵn sàng, tuy thế tư tưởng của ông vẫn đúng, không sai chút nào cả.
– Nếu tư tưởng đúng còn tranh cãi gì được nữa, một là một hai là hai – ông Hai như đang đắc thắng với quan điểm của mình.
– Nhưng không hẳn là ông đúng hoàn toàn, rừng không làm cho chúng ta lạc hậu nhưng không đô thị hóa để hội nhập toàn cầu thì lại làm chúng ta lạc hậu – người thanh niên cũng bắt đầu nêu quan điểm cũng sắc bén không kém cạnh gì ông Hai, đủ làm khơi lên bản chất hơn thua của một người bị cư dân nơi đây dồn ép tư tưởng vào một góc, người đó đã đủ dục vọng để bảo vệ quan điểm đến cùng, bảo vệ cái mà ông cho là không bao giờ bị thay thế được ở hiện tại.
– Thế thì chúng ta sẽ hít thở những thứ gì ở thời buổi hiện đại? Cậu cũng đâu muốn sự suy giảm của sức khỏe là hậu quả của việc đội mới ở đúng không?
– Việc này…nói ra thì thật nhiều vấn đề nan giải, cũng thật mâu thuẫn với nhau, nhưng ông ơi rừng này không mang tính chất cần được bảo vệ.
– Không cần bảo vệ? lúc bằng tuổi cậu tôi còn ở đây chiến đấu bảo vệ nó, máu xương bao người đã hòa vào đất nơi đây làm nguồn sống cho đất nơi đây. Từ những hy sinh đã bảo vệ mảnh đất rừng quê hương, rồi còn qua biết bao nhiêu năm tháng trồng trọt giữ gìn. Cậu có biết chỉ trong vài ngày đến chặt đã làm đổ gục cả hàng chục năm trước và hại hàng trăm năm đời sống về sau không?
– Ở đây là nơi tôi bảo vệ, công sức và tâm huyết của hai phần ba cuộc đời tôi, sao lại gọi là không cần bảo vệ?
– Con hoàn toàn hiểu và ông được mọi người biết đến cũng vì điều đó, nhưng ở nhưng vườn quốc gia và những phần rừng phòng hộ vẫn được bảo vệ đấy thôi. Quan trọng nhất là ở việc khai thác hợp lí, nếu sống mãi về quá khứ chúng ta sẽ trễ mất!
– Trễ…là trễ thế nào?
– Thưa ông, ngày xưa bảo vệ tổ quốc khó khăn trăm bề cũng vì ta thua thiệt kẻ thù quá nhiều, nếu không nhờ những nhà lãnh đạo và tinh thần của các ông thì e rằng giờ đây rừng cũng không còn đâu cho chúng ta bảo vệ. giờ cũng thế, rừng còn thì vẫn còn, nhưng nếu không hội nhập thì con cháu chúng ta sau này sẽ tiếp tục thua thiệt, như thế thì sao nhìn mà chịu nổi.
– Ừ cậu nói phải! – ông Hai bình tĩnh lại rồi tiếp tục ngồi chờ để lắng nghe về những điều mới mẻ của thời sự, ông thấy rằng cũng do quá để tâm đến thời sự về rừng mà quên đi nhiều yếu tố khác, đặc biệt là tri thức và tài năng của lớp sống sau này. Nếu sống mãi ở trong rừng thì chỉ là một người rừng nguyên thủy, cổ hủ và lạc hậu.
– Mọi điều ông đều đúng cả nhưng để con em mình thua thiệt chắc con nghĩ ông cũng không muốn thế, con có vài tấm hình về vườn quốc gia được chụp để làm tư liệu cho bài báo phóng sự để sau này cho bạn bè thế giới biết về đất rừng của nước ta đẹp như thế nào – nói xong người thanh niên lấy ra vài tấm ảnh chụp được ở những vườn quốc gia, cây cối xanh tốt, một màu xanh như có mang theo một cả một làn gió trong tấm ảnh khiến hai thân cây còn lại ở chỗ ông hai xào xạc, thật là một khu rừng cây trong mơ của ông Hai. Bỗng chính ông nhận ra rằng mình thật hoài công và nực cười, thật đáng hổ thẹn.
– Vậy đây là những rừng cây còn được bảo tồn sao? Đẹp quá!
– Đúng vậy ạ mọi người đã cùng chung tay để bảo vệ rừng như từ trước đến giờ ông vẫn hằng nghĩ đến, cũng thay lời những bộ óc tri thức gửi đến ông một lời cảm ơn chân thành.
– Ừ – ông Hai chỉ có thể đáp thế vì cũng chẳng biết làm gì hơn. Song cả hai người từ cách biệt ban đầu từ thế hệ đến tư tưởng giờ đây lại hòa hợp đến không thể ngờ, đáng nói hơn là cùng một mục đích .Một hồi lâu tâm sự thì trời cũng khuya, anh thanh niên giã biệt.
– thôi cũng đã trễ, cảm ơn ông đã chịu lắng nghe một hậu bối như con giờ con xin phép về nghỉ ngơi để mai còn về thành phố.
– Tôi thấy tôi cảm ơn cậu mới đúng, tạm biệt cậu. Nhưng khi nào cậu mới ra lại vườn quốc gia?
– Con chưa biết nhưng sẽ sớm thôi – rồi ông Hai đi vào trong căn chồi lấy ra cái cây nhỏ cao chừng một mét rồi nói
– Tôi gửi cậu cái cây này khi nào ra vườn quốc gia thì hãy đem cho mấy anh trồng, trước tôi cũng trồng loại này ở đây, mau lớn, với cả trưởng thành thì cao lớn và tán cây to lắm.
– Cảm ơn ông – anh thanh niên nhận lấy cái cây nhưng không biết sao anh lại thấy xúc động, có chút gì nghẹn ngào lại trong đầu óc một người tri thức trẻ, tiếp xúc nhiều với thế giới cứ có một chút gì ngập ngừng mãi trong chàng trai ấy thốt mãi không nên lời rồi cũng đành thôi. Nhà báo trẻ tay ôm cái cây nhỏ rất cẩn thận rồi bước đi thật xa vào ánh sáng của ngọn đèn đường ngoài lộ lớn.
Nhìn theo bóng chàng trai kia thì tâm trạng ông Hai cũng khó tả y hệt vậy mặc cho những nút thắt trong lòng ông đều đã được gỡ bỏ. Một người gần lỗ đất như ông đã cảm thấy mình quá chậm so với thời đại. Biết rằng hòa bình, độc lâp đánh đổi bằng sự hy sinh, nhưng để trường tồn thì phải chấp nhận hy sinh. Những người đi trước đã không tiếc một thời máu đổ vì nhân sinh thì cũng nên biết nhìn về tương lai mà đánh cược. Ông Hai cũng không biết mình may mắn hay xui xẻo mà phải trải qua nỗi khổ tâm nơi nút giao hai thời đại. Tưởng chừng hai khoảng thời gian đã quá cách xa nhau nhưng thực tế lại cùng chung mục đích. Sau một hồi lâu trầm ngâm thì ông Hai quyết định lấy máy cưa của mình ra đốn luôn hai thân cây còn lại, chính tay ông cũng đặt trọn niềm tin vào hành động của mình ngay lúc này. Tiếng máy cưa vang vọng công trường, tiếng cưa đinh tai nhức óc, tiếng cưa của sự buông bỏ nó lại càng vang xa, vang cao đến hàng năm sau.
Đến sáng ra thì người ta không còn thấy hai thân cây đâu nữa nên công nhân đã yên tâm vào việc đề kịp tiến độ. Phía xa xa ông Hai đang dắt tay bé Hà đứng và nhìn chăm chăm vào việc cuốc, xới đất lên. Một chiếc xe cào đã cán qua đám chồi dây dưa hấu vừa nhố lên hôm qua. Bé Hà nhìn ông Hai, không thấy một nét mặt giận dữ nào mà thay vào đó là nét mặt nghiêm nghị. Ông Hai đứng thẳng, mặt nghiêm nghị, khép hai chân, đưa tay phải chéo lên trán, ông đã chào rừng như chào một người đồng chí với tư thế hiên ngang của một người lính. Một lát sau không ai còn thấy ông già và đứa bé đâu nữa.
Chức năng bình luận chỉ dành cho độc giả đã xác minh tài khoản.
Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập ngay.